Diễn Đàn
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn

/

 
Trang ChínhGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi Sudieptutroi

 

 GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Góc Phố
Cấp bậc: Quản Lý
Cấp bậc: Quản Lý


Giới tính : Nam
Tổng số bài gửi : 457
Điểm NHIỆT TÌNH : 1330
Ngày tham gia : 20/01/2011
Job/hobbies : student

GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi Vide
Bài gửiTiêu đề: GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi   GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi EmptyMon May 23, 2011 12:15 pm




      Biên khảo:

      GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA

      Tác giả: Đặng Phương Nghi - Vườn Ô-liu 22

      Chuyện tiếng Việt là một tiếng Á Châu được viết hoàn toàn bằng mẫu tự la tinh làm rất nhiều người ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên cũng phải, vì đây là một trường hợp hi hữu, bởi những sự phiên âm theo lối a,b,c của các quốc gia lân cận như Trung Quốc với tiếng pinyin (phiên âm) không có mấy tác động trên quần chúng, không thay thế được chữ cũ và rốt cuộc chỉ có công hiệu trong sự liên lạc với người ngoại quốc.
      Như ai cũng đoán được, sự la tinh hoá tiếng Việt chỉ xảy ra được tương đối mới đây thôi, vào lúc gặp gỡ giữa người Việt và người Tây phương, và trước đó người Việt có một văn tự khác. Quả thế, lịch sử chữ viết tiếngViệt thể hiện rõ định mệnh trớ trêu của dân Việt, bao phiên bị ngoại bang chi phối, phải không ngưng tranh đấu cho nền độc lập và hằng tính của mình.
      Là một nước nhỏ bé bên cạnh một nước láng giềng vĩ đại, Việt Nam không khỏi là một con mồi luôn luôn bị dòm ngó, cho nên đã phải chịu sự đô hộ của Tàu suốt một ngàn năm, từ thế kỷ thú I đến thế kỷ thứ X. Tất nhiên, trải qua sự Hoa hóa lâu dài bó buộc kia, việc chữ Hán được chọn làm văn tự chính thức cho Việt Nam dưới lốt chữ nho - bởi tuy là chữ Hán nhưng đã được các nhà nho Việt Nam Việt hóa bằng cách đọc khác hẳn (song có thuyết cho rằng lối đọc của ta nguyên là lối đọc hơi trệch đi của người nhà Ðường) – không có gì lạ.
      Có điều, tuy cuộc đô hộ đã khiến một số chữ nho thuộc về vốn chữ của người Việt, chữ ấy không ăn nhập gì với ngôn ngữ thông dụng, về ngữ vựng cũng như cấu trúc (ví dụ như thứ tự từ). Vì thế nên ngay từ thế kỷ thứ X, tức sau khi giành độc lập, các học giả Việt Nam đã chế dần ra một văn tự riêng biệt để ghi chép tiếng Việt, mênh danh là chữ nôm (tức là chữ dùng tả chuyện nôm na hàng ngày, trái với chữ nho dùng trong hành chánh, học hành cao xa), bằng cách giản dị hóa chữ Hán hoặc ghép chữ Hán với một bộ phận khác ghi âm hay ghi nghĩa. Tiếc thay, mặc dầu đã thành tựu từ thế kỷ XIII và có vị trí trong văn học, ngoài hai dự định không thành dưới triều Hồ và Tây Sơn ngắn ngủi vào cuối thế kỷ XV và XVIII, chữ nôm không tài nào chiếm được ưu thế xứng đáng đối với chữ nho.
      Viện cớ các sách vở của người Việt xưa đều viết bằng chữ mượn của Tàu, nhiều học giả ngoại quốc cho rằng trước khi người Hán xâm lược nước ta, dân ta không có văn tự. Khẳng định như vậy có nghĩa là quên đi chính sách hủy diệt văn hóa bản xứ không để lại một chứng tích nào do triều đình Trung Hoa chủ trương đối với nước Việt nhỏ bé bướng bỉnh, đến mọi sách vở văn tự một mảnh một chữ đều đốt hết, cũng như coi thường một số chứng cứ liển quan đến một thứ chữ viết kiểu nòng nọc do người Mường (chủng tộc gần người Việt xưa nhất) từng sử dụng, đã được khắc thành hoa văn trên trống đồng tiền sử (Lũng Cú).
      Là hiện thân cuối cùng của tiếng Việt, được chính thức hóa vào thời Pháp thuộc, chữ quốc ngữ hay tiếng nước nhà có tên như vậy vì nó diễn tả đúng khẩu ngữ của người Việt. Ðó là một lối ghi âm theo mẫu tự la tinh do các giáo sĩ dòng Tên tới Việt Nam vào đầu thế kỷ XVII sáng chế ra với sự giúp đỡ của các con chiên người Việt, cốt để nhờ nó ghi nhớ dễ dàng trong việc học tiếng bản xứ, rồi dùng nó vào việc giảng đạo. Vì các giáo sĩ thường dựa vào tiếng mẹ đẻ của họ để ghi lại âm thanh tiếng Việt, chữ quốc ngữ thể hiện kiểu viết của nhiều nước Âu Châu, đặc biệt của Bồ Ðào Nha bởi vào thời đó giáo sĩ người Bồ đông hơn cả. Tên của linh mục Alexandre de Rhodes thường được gắn liền với chữ quốc ngữ, chẳng phải vì ông là người đầu tiên nghĩ ra hay là người đầu tiên viết bằng quốc ngữ - trước ông có nhiều người khác có công hơn, ví như Gaspar de Amaral chính mới là tác giả của cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên – mà vì ông là tác giả của hai quyển sách (một từ điển Việt – Bồ - La tinh và một sách giảng kinh) viết chữ quốc ngữ lần đầu tiên được xuất bản (tại La Mã năm 1651) nên nổi tiếng.
      Noi gương các cố đạo người Âu, có một số người Việt công giáo (như Benito Thiện vào thế kỷ XVII và Philippe Bỉnh vào thế kỷ XVIII) cũng học và viết quốc ngữ, nhưng trước thời Pháp thuộc quốc ngữ coi như không ra khỏi cửa đạo.
      Cuộc chinh phục Nam Kỳ của Pháp năm 1862, rồi cuộc đặt nền thống trị Pháp trên toàn cõi Việt Nam năm 1884 đánh dấu sự phát huy của chữ quốc ngữ do các thống đốc Pháp khuyến khích. Ngay năm 1865 ra đời tại Sài Gòn tờ báo đầu tiên viết bằng quốc ngữ, tờ Gia Ðịnh báo, sau đó nhiều báo khác tiếp tục phát hành. Ðồng thời nhà cầm quyền Pháp khiến dịch và in sách quốc ngữ cùng cho mở trường tiểu học dạy quốc ngữ. Nhưng mặc sự sốt sắng viết lách của một số tân trí thức, phần đông xuất thân từ ngạch thư ký, thông dịch viên (như Petrus Ký, Nguyễn Văn Vĩnh), bước đầu tiên dân chúng không mấy hưởng ứng chữ quốc ngữ vì coi nó như biểu tượng của quân xâm lược thống trị và chống đối không cho con cái học chữ ấy.
      Phải đợi đầu thế kỷ XX , khi các nhà kháng chiến yêu nước trong nhóm Ðông Du ý thức sự giản tiện của nó (một đứa trẻ đọc viết thông thạo sau nhiều nhất hai năm với chữ quốc ngữ, trong khi phải sau mười năm mới đọc và hiểu nổi các sách Hán-Nôm) cũng như hiệu năng của nó trong việc mở mang và nâng cao dân trí, chữ quốc ngữ mới thực sự được đón nhận là chữ nước nhà. Nhờ sự cổ võ và bảo trợ qua báo chí, thơ văn hay truyền đơn (có những câu vè kiểu như « tiếng quốc ngữ, chữ nước ta, con cái nhà đều phải học » được truyền bá khắp dân gian), nhờ từ nay đủ mặt các nhà trí thức kể cả những nhà nho cựu trào sử dụng và quảng bá, chẳng bao lâu chữ quốc ngữ trở thành chữ viết độc nhất của người Việt, trong khi chữ nho và chữ nôm bị bỏ và quên lãng dần, nhất là sau khi các cuộc thi cũ dụa trên Hán học bị bãi bỏ hẳn (1919) để nhường chỗ cho tân hệ thống giáo dục Ðông Dương do Albert Sarault qui định (1918).
      Từ lúc thành hình vào năm 1620 đến giờ, chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều cuộc thay đổi trong cách sắp chữ, đặt văn, về hình thức cũng như về văn phạm song song với những ảnh hưởng của các nền học vấn trên trí thức Việt Nam. Song le, những thay đổi đó không mấy quan trọng và chữ quốc ngữ vẫn giữ được tính chất thuần nhất, nhờ các tác giả phần lớn vẫn tôn trọng ngữ pháp ấn định bởi Giám mục Taberd trong từ điển Việt – la tinh La tinh – Việt xuất bản tại Serampour (Ấn Ðộ) năm 1838, đã được Pháp tôn làm tiêu chuẩn ngay 1873, mặc dầu trước hay sau khi Việt Nam độc lập (1945) có nhiều phong trào đòi cải cách chữ quốc ngữ.
      Tuy là một sản phẩm ngoại lai, chữ quốc ngữ đã thấm nhuần tâm hồn Việt ; với nó tận cùng ngôn ngữ chính thức của người Việt trùng hợp vói ngôn ngữ hàng ngày, văn tự đi đôi với tiếng nói. Nếu có thể tiếc rằng vì chọn quốc ngữ dân Việt mất đi một phần rễ bởi không đọc nổi sách báo tài liệu do ông cha để lại, phải cám ơn quốc ngữ đã cho phép nền văn hóa giáo dục Việt Nam khai triển mạnh và có đà tiếp tục tiến hóa hầu mở dần cho nước Việt một con đường sáng lạn.



    Góc Phố




Về Đầu Trang Go down
 

GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA- Đặng Phương Nghi

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.

- Nếu chèn smiles có vấn đề thì bấm a/A trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn :: (¯`• ♥.*. ♥•´¯) NGHỆ THUẬT SỐNG (¯`•♥.*.♥.´¯) :: TRANG VĂN :: Thể loại Khác
-
free counters